
Xây dựng hệ sinh thái du lịch xanh toàn diện
Đề cập đến vấn đề phát triển du lịch từ nguồn tài nguyên, văn hóa bản địa, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh (TP. Đà Nẵng) - cho rằng, miền núi, trung du nước ta là “kho báu tự nhiên vô giá”, nơi hội tụ cảnh quan hùng vĩ, khí hậu mát dịu cùng những giá trị văn hoá bản địa độc đáo - từ ruộng bậc thang, thác nước, rừng nguyên sinh đến nghề dệt thổ cẩm, ẩm thực, lễ hội và tri thức dân gian của đồng bào dân tộc”.
Vì vậy, theo đại biểu, cần nhìn nhận miền núi không chỉ là vùng khó khăn, mà là vùng có “cơ hội lớn cho phát triển xanh, bảo tồn di sản văn hoá bản địa”. Từ đó, xác lập rõ định hướng hạ tầng chống chịu thiên tai trong quy hoạch quốc gia, chuyển mạnh từ đầu tư xây dựng hạ tầng sang kiến tạo hạ tầng bền vững. Đặc biệt, việc đầu tư cho du lịch miền núi để phát triển kinh tế, bảo tồn di sản văn hoá phải được xem là một trụ cột trong chiến lược phát triển vùng và quốc gia.
Bên cạnh đó, đại biểu đề xuất cần có cơ chế thuận lợi để người dân, nhất là phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số, trở thành chủ thể của phát triển du lịch miền núi, qua đó biến kho tàng văn hoá truyền thống thành tài sản sinh kế bền vững.
Đồng quan điểm, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh (Vĩnh Long) - đề xuất xây dựng hệ sinh thái văn hoá du lịch xanh toàn diện, coi đó là hướng đi phù hợp trong bối cảnh biến đổi khí hậu và cạnh tranh du lịch toàn cầu ngày càng khốc liệt. Đại biểu kiến nghị Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp các địa phương xây dựng thương hiệu quốc gia “Du lịch văn hoá xanh Việt Nam”, quảng bá hình ảnh đất nước thân thiện, nhân văn, bền vững.

Đại biểu cũng chỉ ra, hiện cả nước có hơn 8.000 di tích quốc gia, 8 di sản thế giới, 16 di sản phi vật thể đại diện nhân loại và hàng nghìn lễ hội truyền thống đặc sắc - nhưng vẫn thiếu cơ chế gắn kết hiệu quả giữa bảo tồn, du lịch và phát triển kinh tế địa phương.
Vì vậy, đại biểu đề nghị: “Cần khuyến khích đầu tư hạ tầng xanh, không gian văn hoá cộng đồng; hỗ trợ nghệ nhân dân tộc thiểu số và người dân bản địa - những người đang gìn giữ tài sản văn hoá sống của dân tộc”.
Các đại biểu cũng nhấn mạnh yêu cầu đẩy mạnh chuyển đổi số trong văn hóa và du lịch, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số vào hoạt động của di sản văn hóa. Hiện nay, nhiều di tích quốc gia đặc biệt đã được số hóa tại các địa phương trên cả nước, các bảo tàng, khu di sản ứng dụng thực tế ảo giúp du khách trải nghiệm không gian văn hóa một cách sống động; nhiều địa phương đã triển khai thẻ du lịch thông minh, bản đồ số du lịch xanh giúp du khách tra cứu, đặt vé, thanh toán và phản hồi dịch vụ.
Đây là những bước đi đúng hướng cần được nhân rộng trên toàn quốc, hình thành nền tảng dữ liệu quốc gia về văn hóa du lịch xanh, liên kết bản đồ các điểm đến giúp du khách dễ dàng tiếp cận và lan tỏa hành trình của mình một cách thân thiện, tiện lợi và văn minh.
Kiến tạo thể chế, thúc đẩy công nghiệp văn hoá
Quan tâm đến phát triển công nghiệp văn hóa, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (Ninh Bình) - cho rằng, công nghiệp văn hoá là lĩnh vực đang được Đảng và Nhà nước xác định là ngành kinh tế mũi nhọn.
Theo đại biểu, sau 4 năm triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hoá đến năm 2030, Việt Nam đã bước đầu hình thành hệ sinh thái sáng tạo với điện ảnh, âm nhạc, thời trang, thiết kế, thủ công mỹ nghệ, di sản số… Tuy nhiên, quy mô thị trường vẫn khiêm tốn, mới chiếm khoảng 4% GDP - thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Nhiều địa phương chưa có chiến lược riêng cho phát triển công nghiệp văn hóa; công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực và liên kết vùng chưa rõ nét…

Để đạt mục tiêu đến năm 2035, ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 8 -10% GDP, đại biểu Thanh đề xuất một loạt các giải pháp. Trong đó, vấn đề ưu tiên là hoàn thiện thể chế, ban hành Luật Phát triển Công nghiệp Văn hoá để kiến tạo một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, rõ ràng; xây dựng một thị trường văn hóa lành mạnh, quy định rõ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả, nhà sáng tạo, các chính sách ưu đãi đầu tư, thuế, đất đai và chuyển đổi số…
Cùng với đó là phát triển hệ sinh thái sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao; hình thành các trung tâm sáng tạo, hỗ trợ khởi nghiệp văn hóa, ươm mầm ý tưởng và dự án nghệ thuật, đổi mới giáo dục nghệ thuật, gắn đào tạo với nhu cầu thị trường và chuyển đổi số.
Đồng thời, đại biểu cũng đề cập đến các giải pháp về đẩy mạnh chuyển đổi số trong văn hoá và nghệ thuật, ứng dụng AI, thực tế ảo trong bảo tồn di sản và du lịch văn hoá; liên kết vùng và xã hội hoá đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp, nghệ sĩ tham gia phát triển công nghiệp văn hoá; quảng bá sản phẩm văn hoá Việt Nam ra thế giới qua điện ảnh, lễ hội sáng tạo, thời trang và ẩm thực.
Nhà nước cần xác định công nghiệp văn hóa là một ngành kinh tế trọng điểm, cần đưa chỉ tiêu tăng trưởng ngành vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm; đầu tư trọng điểm cho hạ tầng sáng tạo, bảo tồn di sản, chuyển đổi số văn hóa và phát triển nguồn nhân lực. Mỗi tỉnh, thành phố cần xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa riêng gắn với đặc trưng, bản sắc di sản và thế mạnh địa phương.
Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh
Đại biểu Nguyễn Thị Sửu (TP. Huế) cũng chỉ rõ, ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam còn thiếu hệ thống chính sách hỗ trợ cũng như khung pháp lý riêng; cơ chế đầu tư, sở hữu trí tuệ, hạ tầng sáng tạo và thu hút tư nhân còn rời rạc. Vì vậy, đại biểu đề nghị cần xây dựng văn bản pháp luật riêng về phát triển công nghiệp văn hoá và sáng tạo, đồng thời thành lập Quỹ sáng tạo văn hoá quốc gia, có chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp sáng tạo và chuẩn hoá thiết chế văn hoá số, quyền tác giả và thương mại hoá tài sản văn hoá Việt Nam trên nền tảng số.
Giải trình các vấn đề đại biểu Quốc hội đặt ra tại Phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng ghi nhận những thực tế, bất cập của ngành du lịch - văn hóa hiện nay.

Bộ trưởng cho biết, Chính phủ đang đề xuất xây dựng Luật Công nghiệp văn hoá - một đạo luật mới nhằm thể chế hoá các chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp văn hoá, tạo khung pháp lý kiến tạo và hỗ trợ doanh nghiệp sáng tạo, bảo vệ quyền tác giả và thúc đẩy thương mại hoá sản phẩm văn hoá Việt Nam.
Luật sẽ giúp lựa chọn các lĩnh vực có lợi thế của Việt Nam như nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, thiết kế cảnh quan và du lịch văn hoá, qua đó hình thành ngành công nghiệp văn hoá đóng góp hiệu quả vào GDP quốc gia - Bộ trưởng cho hay.
Đồng thời, Bộ Chính trị đã giao Chính phủ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch hoàn thiện Nghị quyết về các giải pháp đột phá chấn hưng và phát triển văn hoá Việt Nam trong kỷ nguyên mới, dự kiến ban hành trong quý IV năm nay.
Nghị quyết này sẽ là văn kiện tầm chiến lược, định hướng hành động cụ thể để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần và hệ điều tiết phát triển bền vững của đất nước.
