Đại diện CIEM phát biểu tại buổi hội thảo. (Ảnh: SGGP)
Sáng 25/11, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức hội thảo “Phát triển kinh tế số Việt Nam trong thời kì hậu COVID-19: Một số yêu cầu và lộ trình cải cách thể chế” nhằm đánh giá và thảo luận về chính sách và yêu cầu cải cách thể chế cho phát triển kinh tế số trong thời gian tới.
Phát biểu tại hội thảo, Viện trưởng CIEM, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hồng Minh đánh giá trong những năm gần đây, Việt Nam không ngừng tìm kiếm động lực mới cho tăng trưởng. Theo đó, Việt Nam đã chủ động tiếp cận cơ hội từ kỹ thuật số nói chung và thương mại điện tử nói riêng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Dịch COVID-19 càng khiến cho sự quan tâm của Chính phủ và doanh nghiệp đối với kỹ thuật số ngày càng mạnh mẽ hơn. Sự đứt gãy của không ít hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng truyền thống buộc các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam phải mạnh dạn hơn trong nghiên cứu, ứng dụng nền tảng số hóa trong các hoạt động quản lý, sản xuất-kinh doanh.
Bà Nguyễn Thị Hồng Minh nhấn mạnh: "Sự chuyển đổi số của nền kinh tế sẽ triệt để và có ý nghĩa nếu như chuyển đổi số của chính phủ và doanh nghiệp song hành với nhau. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế số phải đủ bao trùm đối với các địa bàn khó khăn và các nhóm yếu thế như phụ nữ, người dân ở khu vực miền núi."
Thế giới đang chứng kiến những chuyển biến nhanh như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, xuất phát từ đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có làn sóng số hóa của lĩnh vực sản xuất.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, nhiều quốc gia đã quan tâm và cụ thể hóa các ưu tiên phát triển kinh tế số. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 càng khiến Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến kinh tế số nhiều hơn.
Ban Nghiên cứu Tổng hợp của CIEM cho biết, báo cáo “Phát triển kinh tế số Việt Nam trong thời kì hậu COVID-19: Một số yêu cầu và lộ trình cải cách thể chế” được thực hiện nhằm đánh giá những ưu tiên chính sách, triển khai thực thi và thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng xác định những điều kiện và yêu cầu về cải cách thể chế nhằm phát triển bao trùm về kinh tế số và đề xuất lộ trình phát triển kinh tế số ở Việt Nam.
Thời gian qua, Việt Nam đã thể hiện tinh thần cầu thị, ham học hỏi, nỗ lực tạo hành lang pháp lý thúc đẩy kỹ thuật số phát triển. Quá trình hoạch định chính sách cũng như thực tiễn phát triển kinh tế số của Việt Nam về cơ bản trong tư duy phát triển thể hiện sự nhất quán với kinh nghiệm quốc tế.
Đó là, hành lang chính sách phát triển kinh tế số được xây dựng và hoàn thiện theo hướng mở, hỗ trợ doanh nghiệp. Chính phủ nói riêng và khu vực kinh tế nhà nước nói chung đã giữ vai trò động lực quan trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế số phát triển.
Bên cạnh đó, quyết tâm chuyển đổi số cũng như tinh thần đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét.
Hướng tới phát triển kinh tế số trong thời gian tới, Viện trưởng CIEM đề xuất cân nhắc một số nhóm giải pháp như: bảo đảm môi trường an toàn, an ninh mạng song song với tạo thuận lợi cho kinh tế số; hoàn thiện chính sách cạnh tranh đối với kinh tế số; bổ sung, sửa đổi các quy định về thuế để điều chỉnh các hoạt động trên nền tảng số.
Bên cạnh đó, cần tăng cường hiệu lực bảo hộ sở hữu trí tuệ, đặc biệt gắn với thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA); điều chỉnh các quy định liên quan đến thị trường lao động và an sinh xã hội trong bối cảnh số và phát triển hạ tầng số.
Viện phó Viện Chiến lược thông tin và truyền thông Trần Minh Tuấn cho rằng cần có những chính sách về dữ liệu mở, cho phép công chúng tiếp cận để khuyến khích phân tích, sáng tạo và phát triển các ứng dụng từ nguồn dữ liệu mở này.
Thêm vào đó, công nghệ ứng dụng trong phát triển đô thị thông minh cần phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và có khả năng tương thích với các quốc gia khác để có thể chuyển tải dữ liệu giữa các nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập.
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số, rất nhiều các quan hệ lao động sẽ được định vị lại như quan hệ đối tác, quan hệ giữa chủ-người lao động. Đặc biệt với sự tham gia của Việt Nam vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới hiện nay như CPTPP và EVFTA thì các quy định này cần phải thay đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho cả người sử dụng cũng như người lao động.
Theo đại diện Ban Nghiên cứu Tổng hợp của CIEM cho biế, ngoài việc hưởng các chế độ thông thường, việc tham gia vào các thị trường lao động sẽ đảm bảo cho người lao động được nâng cao các kỹ năng công nghệ, góp phần vào thành công xây dựng nền kinh tế số ở Việt Nam./.
Theovietnamplus.vn