Bổ sung các trường hợp gia hạn Giấy phép khai thác khoáng sản trong điều kiện chuyển tiếp
Chia sẻ tại Hội thảo lần thứ 3 lấy ý kiến góp ý Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Xây dựng và Sản xuất vật liệu xây dựng Biên Hòa - ông Phạm Thái Hợp - cho hay, khoản 1, Điều 84. Điều khoản chuyển tiếp của Luật Khoáng sản năm 2010 quy định: “Tổ chức, cá nhân được cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản trước ngày Luật này có hiệu lực thì được tiếp tục thực hiện đến hết thời hạn quy định trong giấy phép”.
Tuy nhiên, nội dung này chưa được hướng dẫn thi hành cụ thể. Vì nếu chỉ xem xét riêng điều khoản chuyển tiếp này một cách độc lập thì mặc nhiên tất cả các trường hợp Giấy phép khai thác cấp trước ngày 01/7/2011 khi hết hạn thì sẽ bị chấm dứt hiệu lực mà chưa loại trừ các trường hợp đủ điều kiện được phép gia hạn, trong khi Luật Khoáng sản 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành có nội dung quy định về việc gia hạn giấy phép khai thác.
Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản gồm 13 chương và 132 điều, đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch; khắc phục các bất cập nhằm quản lý thống nhất lĩnh vực địa chất, khoáng sản; quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản.
Ông Mai Thế Toản - Phó Cục trưởng Cục Khoáng sản Việt Nam
Thêm vào đó, hiện nay, khoản 2, Điều 130. Điều khoản chuyển tiếp trong Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản vẫn giữ nội dung như Luật Khoáng sản năm 2010. Ông Hợp cho rằng, không cần thiết phải quy định nội dung chuyển tiếp này, bởi quy định này rất dễ bị diễn giải áp dụng theo hướng: Khi giấy phép hết thời hạn thì sẽ phải chấm dứt hiệu lực, doanh nghiệp phải đóng cửa mỏ để Nhà nước vào đấu giá. Đồng thời, nội dung này chưa đồng bộ với các nội dung về thăm dò và khai thác xuống sâu quy định tại Điều 5, Điều 72 và Điều 74 của Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản.
Đồng quan điểm, Phó Giám đốc Công ty TNHH Khoáng sản Minh Tiến - ông Bùi Minh Hội - cũng kiến nghị sửa khoản 2 Điều 130 Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản theo hướng có bổ sung các trường hợp gia hạn Giấy phép khai thác khoáng sản trong điều kiện chuyển tiếp để tạo thuận lợi cho đơn vị khai thác.
Xem xét quy định về chấm dứt hiệu lực giấy phép hoạt động khoáng sản
Bên cạnh những bất cập trong việc gia hạn Giấy phép khai thác khoáng sản, quy định về trường hợp chấm dứt hiệu lực giấy phép hoạt động khoáng sản cũng là nội dung nhận được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Khoản 2, Điều 74 của Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản quy định trường hợp Giấy phép hết hạn thuộc trường hợp bị thu hồi, chấm dứt hiệu lực.
Cũng theo đại diện Công ty Cổ phần Xây dựng và Sản xuất vật liệu xây dựng Biên Hòa, với quy định này thì mặc nhiên tất cả các trường hợp Giấy phép hết hạn sẽ bị chấm dứt hiệu lực mà chưa loại trừ các trường hợp được phép gia hạn. Đồng thời, khi mỏ bị rơi vào trường hợp bị thu hồi, chấm dứt hiệu lực thì Nhà nước sẽ thực hiện đưa vào đấu giá theo quy định tại khoản 5 Điều 74 của Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản.
Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản cần phân cấp mạnh mẽ hơn trong công tác quản lý nhà nước ở địa phương, nhất là UBND cấp huyện, thị xã, thành phố. Từ đó, tạo được cơ chế, quy định để địa phương có thẩm quyền xem xét cấp phép, quản lý các trường hợp sử dụng nguồn khoáng sản (đất, cát) của các hộ gia đình cá nhân; đảm bảo được tính pháp lý khi xử lý các trường hợp như: Cải tạo đất, sử dụng đất có phát sinh nguồn vật liệu dôi dư.
Ông Cao Thanh Vũ - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa
Ông Phạm Thái Hợp kiến nghị sửa khoản 2 Điều 74 theo hướng quy định rõ chỉ áp dụng cho trường hợp “Giấy phép hết hạn mà không đủ điều kiện gia hạn”. Theo lý giải của ông Hợp, hiện nay các doanh nghiệp đều phải thực hiện nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Nghị định số 203/2013/NĐ-CP trên toàn bộ trữ lượng được phép khai thác, thời hạn hoàn thành phải trước 5 năm (đối với giấy phép cấp trước ngày 20/01/2014, ngày hiệu lực của Nghị định số 203/2013/NĐ-CP) hoặc nửa đầu thời hạn cấp phép (đối với giấy phép cấp sau ngày 20/01/2014).
Theo ông Hợp, trong khi hoạt động của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, nhất là về thị trường tiêu thụ giảm sút nên sản lượng không đạt công suất khai thác theo cấp phép. Bên cạnh đó, việc thỏa thuận bồi thường giải phóng mặt bằng với các hộ dân, thủ tục thuê đất vướng mắc kéo dài dẫn đến hầu hết các trường hợp Giấy phép khai thác khoáng sản hết thời hạn mà doanh nghiệp vẫn chưa khai thác hết trữ lượng. Để tháo gỡ vấn đề này, Nghị định số 67/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản nêu rõ: “Tổ chức, cá nhân đã hoàn thành việc nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác, thời hạn khai thác theo giấy phép đã hết nhưng chưa khai thác hết trữ lượng, phần trữ lượng còn lại ưu tiên để gia hạn khai thác nếu đủ điều kiện”.
Do đó, ông Hợp kiến nghị sửa khoản 2 Điều 74 của Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản như trên nhằm đảm bảo quyền lợi công bằng cho các doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với trữ lượng đã cấp phép. Đồng thời cũng đảm bảo đồng bộ với các nội dung quy định thăm dò và khai thác xuống sâu tại Điều 5, Điều 72 và Điều 74 của Dự thảo Luật.
Trước những kiến nghị trên, Phó Cục trưởng Cục Khoáng sản Việt Nam - ông Mai Thế Toản - cho biết, Cục Khoáng sản Việt Nam sẽ nghiên cứu và bổ sung khoản 2 Điều 130 của Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản: “Trường hợp còn trữ lượng và tổ chức cá nhân có nhu cầu tiếp tục khai thác, việc gia hạn giấy phép khai thác khoáng sản hoặc cấp lại giấy phép khai thác khoáng sản được thực hiện theo quy định của Luật này”./.