Hoàn thiện cơ chế, chú trọng giám sát, kiểm toán… để phòng nợ xấu phát sinh

(BKTO) - Qua kiểm toán Đề án Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015 và các ngân hàng những năm gần đây, KTNN nhận thấy, mặc dù công tác xử lý nợ xấu đã có những chuyển biến tích cực nhưng về bản chất, nợ xấu vẫn đang tồn tại ở các TCTD yếu kém; tiềm ẩn trong các khoản nợ xấu nội bảng đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam, các khoản nợ cơ cấu lại, trái phiếu DN và các khoản phải thu bên ngoài. Do đó, hiện nay, phòng ngừa nợ xấu phát sinh tại các TCTD vẫn là một yêu cầu cấp thiết, đỏi hỏi hệ thống ngân hàng phải thực hiện nhiều biện pháp cụ thể.



Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng

Một trong những biện pháp quan trọng góp phần phòng ngừa nợ xấu phát sinh tại các ngân hàng chính là việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tín dụng. Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết, quan điểm cấp tín dụng cần phải được thay đổi theo hướng ưu tiên về chất lượng và tăng cường quản trị rủi ro tín dụng, thay vì chỉ ưu tiên đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Cơ cấu tăng trưởng tín dụng cần hạn chế tập trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao mà nên phân tán vào nhiều ngành nghề kinh tế; đa dạng hóa các loại hình khách hàng; ưu tiên cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo định hướng của Chính phủ và Quốc hội.

Việc nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ có ý nghĩa tăng thu nhập, giảm nợ khó đòi đối với ngân hàng mà quan trọng hơn là đảm bảo vốn ngân hàng đầu tư đúng hướng, có hiệu quả, góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, hạn chế nợ xấu gia tăng, các TCTD cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:

Phân cấp thẩm quyền tín dụng phù hợp với định hướng tập trung hoạt động phê duyệt tín dụng tại hội sở chính, thực hiện phân cấp thẩm quyền tín dụng phải gắn với quy mô, chất lượng, hiệu quả và năng lực quản trị điều hành của các chi nhánh; định kỳ theo dõi đánh giá thường xuyên để kịp thời điều chỉnh giảm thẩm quyền phán quyết đối với các chi nhánh có chất lượng tín dụng giảm sút; mở rộng tín dụng đối với các khách hàng có hệ số rủi ro tín dụng thấp, khách hàng có tài sản bảo đảm là tiền gửi, giấy tờ có giá, bất động sản có tính thanh khoản tốt.

Rà soát lại quy định hiện hành, sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới quy trình tín dụng theo hướng phân rõ trách nhiệm, quyền hạn từng khâu nghiệp vụ nhằm hạn chế tình trạng mang tính hình thức, sơ sài dẫn đến làm sai quy trình, thủ tục cho vay. Quy trình tín dụng được đề cập ở đây bao gồm cả quy trình cơ cấu lại thời hạn trả nợ và phải được xây dựng cụ thể các bước thực hiện; nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi cá nhân, bộ phận.

Đồng thời, xây dựng và quy định chế tài cụ thể đối với các cá nhân, tập thể gây ra nợ xấu bằng các biện pháp như: giảm quyền phán quyết tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng của các chi nhánh. Tùy vào nguyên nhân và mức độ sai phạm mà cá nhân gây ra, TCTD đưa ra các hình thức xử lý phù hợp như: nhắc nhở, phê bình, hạ bậc xếp loại thi đua, cảnh cáo, điều chuyển, cách chức, bồi thường trách nhiệm vật chất và kể cả xử lý theo các quy định của pháp luật.

Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm toán nội bộ...

Bên cạnh việc xây dựng các cơ chế, chính sách, chế tài phù hợp, hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm toán nội bộ tại các TCTD cần phải được chú trọng. Theo đó, các TCTD cần tăng cường công tác đào tạo một cách hệ thống và chuyên sâu về nghiệp vụ ngân hàng quản lý rủi ro, kỹ năng kiểm tra, kiểm soát, giám sát và kiểm toán nội bộ; bổ sung nguồn nhân lực cũng như kiện toàn mô hình tổ chức, hoàn thiện hệ thống các văn bản chế độ kiểm tra, giám sát, kiểm toán nội bộ; phân định và thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ phận quản lý rủi ro, kiểm tra giám sát tuân thủ, kiểm toán nội bộ để xác định rõ trách nhiệm và cách thức phối hợp thực hiện.

Cùng với đó, các TCTD cần mở rộng và gia tăng số lượng đơn vị, nghiệp vụ được kiểm tra, kiểm toán nội bộ, xác định kiểm tra, kiểm toán nội bộ theo định hướng rủi ro; đầu tư trang thiết bị phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp, đảm bảo công tác quản lý, phân tích, giám sát cảnh báo sớm.

Mặt khác, công tác kiểm tra, giám sát tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với một chương trình cho vay lành mạnh của ngân hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được các cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân hàng hay không. Mỗi khoản vay cần được kiểm tra, giám sát cẩn thận, nghiêm túc ở cả 3 khâu trước, trong, sau khi cho vay và được đánh giá tất cả các đặc tính quan trọng của mỗi khoản vay như: phương án trả nợ của khách hàng; chất lượng và tình trạng của tài sản thế chấp; khía cạnh pháp lý của hợp đồng tín dụng... Đồng thời, cán bộ tín dụng của ngân hàng cần thường xuyên rà soát, theo dõi, kiểm tra chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng; đánh giá khả năng trả nợ và có các biện pháp kiểm soát dòng tiền của khách hàng, kịp thời nắm bắt thông tin khách hàng tại các chi nhánh và TCTD khác để đưa ra phán quyết tín dụng cũng như các biện pháp xử lý kịp thời...

Các chuyên gia kinh tế nhận định, khi kinh tế khó khăn, rủi ro đạo đức trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực ngân hàng sẽ ngày càng gia tăng. Có thể thấy, hiện nay, những vi phạm đạo đức kinh doanh trong các TCTD khá phổ biến. Nhiều vụ việc liên quan đến một bộ phận cán bộ tín dụng, lãnh đạo ngân hàng liên kết với khách hàng vay vốn để trục lợi chiếm đoạt tiền và tài sản của ngân hàng. Do đó, để phòng ngừa nợ xấu phát sinh, các TCTD cần tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ ngân hàng.
         
Theo báo cáo gần nhất của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng 3/2018, tổng nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD chiếm 2,18% tổng dư nợ. Tính lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 3/2018, toàn hệ thống đã xử lý được 100,5 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội.

NGUYỄN XUÂN TOÀN (KTNN chuyên ngành VII)
Theo Báo Kiểm toán số 29 ra ngày 19/7/2018
Cùng chuyên mục
  • Phấn đấu thu ngân sách nhà nước vượt 3% so với dự toán
    6 năm trước Ngân hàng - Tín dụng
    (BKTO) - Sáng 18/7, Bộ Tài chính tổ chức Hội nghị trưc tuyến sơ kết công tác tài chính - NSNN 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ tài chính - NSNN 6 tháng cuối năm 2018. Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đến dự Hội nghị.
  • Giải quyết tranh chấp thương mại qua trọng tài Tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch, thân thiện
    6 năm trước Ngân hàng - Tín dụng
    (BKTO) - Tranh chấp thương mại (TCTM), đặc biệt là các vụ việc tranh chấp có yếu tố nước ngoài ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh đó, việc giải quyết các TCTM thông qua trọng tài với nhiều hình thức đảm bảo tính hiệu quả cao sẽ mang lại niềm tin cho DN cũng như góp phần tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước hấp dẫn.
  • Ngành hải quan sẽ nâng cấp hệ thống quản lý nộp thuế điện tử 24/7
    6 năm trước Ngân hàng - Tín dụng
    (BKTO) - Sau 8 tháng triển khai, Đề án Nộp thuế điện tử và thông quan 24/7 đã bước đầu mang lại những kết quả tích cực, đáp ứng được yêu cầu giao dịch, nộp tiền của DN. Tuy nhiên, số thuế thu được qua hệ thống này vẫn còn khiêm tốn so với tổng số thu thuế xuất, nhập khẩu của toàn ngành hải quan. Để Đề án này được triển khai rộng rãi và hiệu quả hơn, tới đây, ngành hải quan sẽ gia tăng tiện ích cho hệ thống để DN có thể nộp thuế mọi nơi, mọi lúc, trên mọi phương tiện.
  • Quản lý và đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội an toàn, hiệu quả
    6 năm trước Ngân hàng - Tín dụng
    (BKTO) - Cùng với việc tăng cường thanh, kiểm tra, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng Quỹ Bảo hiểm xã hội (BHXH), việc nghiên cứu, mở rộng, đa dạng hoá các hình thức đầu tư Quỹ là yêu cầu đang được đặt ra nhằm tăng khả năng sinh lời Quỹ một cách an toàn, hiệu quả.
  • Tăng thuế giá trị gia tăng  sẽ kéo theo nhiều hệ lụy
    6 năm trước Ngân hàng - Tín dụng
    (BKTO) - Bộ Tài chính hiện đang trong quá trình đề xuất Dự thảo Luật Sửa đổi về thuế giá trị gia tăng (VAT) mà theo đó thuế VAT sẽ tăng trên hầu hết các mặt hàng từ ngày 01/01/2019. Các chuyên gia trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu “Đánh giá tác động của việc tăng thuế VAT lên tổng thể nền kinh tế và phúc lợi hộ gia đình” đang bày tỏ quan ngại về những hệ lụy của việc tăng thuế VAT gây ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế vĩ mô, tác động lên mức sống của các hộ gia đình cũng như doanh thu của các nhà sản xuất, đặc biệt là trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa ổn định và khu vực kinh tế tư nhân chưa phát triển mạnh.
Hoàn thiện cơ chế, chú trọng giám sát, kiểm toán… để phòng nợ xấu phát sinh