Nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp

(BKTO) - Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLV) tổng hợp các vướng mắc, bất cập của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69/2014/QH13), xác định rõ các nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung cấp bách để tháo gỡ khó khăn, giải phóng nguồn lực, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (DN) nhà nước thực hiện đầu tư phát triển, đóng góp ý kiến gửi Bộ Tài chính.

von.jpg
Cần hoàn thiện chính sách để nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Ảnh: VGP

Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật

Nhiệm vụ trên vừa được Thủ tướng Chính phủ giao tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ làm việc với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN và 19 Tập đoàn, Tổng công ty do UBQLV làm đại diện chủ sở hữu về triển khai sản xuất, kinh doanh năm 2024 và thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện theo ý kiến chỉ đạo, UBQLV đã rà soát, tổng hợp các vướng mắc, bất cập của Luật số 69/2014/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015. Bà Đặng Thu Thủy - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Kiểm soát nội bộ (UBQLV) cho biết, UBQLV đã tích cực nghiên cứu, góp ý xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật số 69/2014/QH13 thông qua 4 văn bản chính thức, cũng như tham gia nhiều cuộc họp với Bộ Tài chính và các DN, cơ quan liên quan như Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội.

Điểm qua kết quả nghiên cứu đánh giá, tổng kết Luật số 69/2014/QH13, cũng như ghi nhận từ thực tiễn, bà Đặng Thu Thủy chia sẻ, UBQLV đề xuất Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu, tập trung ưu tiên xây dựng các nội dung chính sách nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc; thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới, cơ cấu lại và phát triển DN có vốn nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song song với việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, cần kế thừa, phát huy những quy định phù hợp với thực tế, có tác động tích cực của Luật số 69/2014/QH13…

Cũng ghi nhận nhiều quy định của Luật đã mang lại tác động tích cực, ông Nguyễn Thành Trung - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đánh giá, Luật số 69/2014/QH13 đã tạo hành lang pháp lý cho việc đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất, kinh doanh tại DN.

Cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại DN đã được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới, hội nhập, tạo môi trường pháp lý ổn định hơn cho hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước và DN, tôn trọng và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DN cùng việc tăng cường kiểm tra, giám sát của nhà nước trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản.

Tuy nhiên, sau hơn 9 năm thực hiện Luật số 69/2014/QH13 cho thấy, cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với các chủ trương mới của Đảng, Nhà nước về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại DN, kịp thời khắc phục một số hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thời gian qua - ông Trung cũng nhấn mạnh.

Việc sửa đổi, bổ sung Luật số 69/2014/QH13 rất cần thiết để tạo điều kiện cho DN, cơ quan đại diện chủ sở hữu và các chủ thể có liên quan triển khai hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách hiệu quả, phù hợp với quy định pháp luật, thực tiễn và các cam kết quốc tế, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế.

Sửa đổi căn bản, toàn diện Luật số 69/2014/QH13

Từ phía Bộ Tài chính, ông Bùi Tuấn Minh - Cục trưởng Cục Tài chính DN cho biết, Bộ Tài chính dự kiến đề xuất sửa đổi căn bản các nội dung của Luật số 69/2014/QH13 thông qua 6 nhóm chính sách.

Thứ nhất là chính sách về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại DN, cần phải đảm bảo nguyên tắc “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”, bảo toàn, hiệu quả, công bằng, thị trường, linh hoạt và công khai, minh bạch. Tăng cường phân công, phân cấp ủy quyền cho Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị gắn với trách nhiệm giải trình của người đứng đầu, lãnh đạo DN; trách nhiệm giám sát, kiểm tra của cơ quan, người đại diện chủ sở hữu vốn. Vốn nhà nước đầu tư tại các DN phải được quản lý thống nhất, không phân biệt cấp quyết định thành lập.

Thứ hai là chính sách về đầu tư vốn nhà nước vào DN, sẽ quy định rõ vốn nhà nước sau khi đã đầu tư vào DN để thực hiện nghĩa vụ góp vốn chủ sở hữu nhà nước được xác định là tài sản, vốn của pháp nhân DN. Nhà nước thực hiện quản lý DN theo pháp nhân DN đầu tư vốn, không quản lý DN theo từng tài sản mà chủ sở hữu góp vốn điều lệ.

Thứ ba là chính sách về hoạt động đầu tư của DN sẽ được quy định cụ thể, phân cấp rõ trong Luật để đảm bảo chủ động và xác định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục, trách nhiệm của DN và các cơ quan trong hoạt động đầu tư của DN.

Thứ tư là chính sách về sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước tại DN. Bộ Tài chính dự kiến đề xuất hướng dẫn cụ thể các nguyên tắc về sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước đã đầu tư tại DN và quy định rõ hình thức chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu.

Thứ năm là chính sách về cơ quan, người đại diện chủ sở hữu vốn sẽ được sửa đổi theo hướng tách bạch rõ nội dung chức năng quản lý, đầu tư vốn của đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản trị, điều hành của DN nhà nước…

Thứ sáu là chính sách về quản trị DN, trong đó quy định rõ quyền và trách nhiệm của DN, đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh của DN.

Để đảm bảo việc sửa đổi Luật lần này sẽ khơi thông, khai thác hiệu quả nguồn vốn và nguồn lực khác tại các DN, bảo đảm vai trò chủ đạo của DN nhà nước trong phát triển nền kinh tế, theo ý kiến của Phó Chủ tịch UBQLV Nguyễn Ngọc Cảnh, phạm vi điều chỉnh Luật cần rà soát để bảo đảm tránh chồng chéo với các luật khác, làm rõ nội hàm các khái niệm để có cách hiểu thống nhất trong triển khai thực hiện.

Cùng với đó, cần quy định rõ nguyên tắc thị trường và DN chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN; cần trao quyền nhiều hơn cho DN để chủ động, đổi mới, sáng tạo và phát triển, hướng đến mục tiêu cuối cùng là bảo toàn và phát triển vốn nhà nước./.

Cùng chuyên mục
Nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp