Nợ công vẫn an toàn nhưng cơ cấu nợ chưa bền vững

(BKTO) - Theo nhận định của Bộ Tài chính, mặc dù nợcông vẫn nằm trong giới hạn an toàn nhưng cơ cấu nợ chưa thực sự bền vững; việchuy động, sử dụng vốn vay còn dàn trải, chưa gắn kết chặt chẽ với các hạn mức nợcông... Hiện Bộ Tài chính cùng các Bộ, ngành đã và đang thực hiện nhiều giảipháp để bảo đảm nợ công phải thực sự bền vững theo đúng tinh thần chỉ đạo củaThủ tướng Chính phủ là quản lý chặt chẽ nợ công, nhất là các khoản vay mới;tính đúng, tính đủ nợ công theo quy định…




Một cuộc Hội thảo khoa học về xác định phạm vi nợ công và trần nợ công an toàn của Việt Nam. Ảnh: T.S
Đã chủ động cơ cấu lại nợ công

Tại cuộc họp báo mới đây do Bộ Tài chính tổ chức, ông Trương Hùng Long - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết: Nợ công là nguồn tài chính quan trọng bổ sung cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Công tác quản lý nợ công của Việt Nam trong thời gian qua có nhiều chuyển biến, dần tiếp cận gần hơn với thông lệ thế giới. Việc công khai nợ công đã bước đầu đi vào nề nếp, tạo được kênh thông tin quan trọng phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, nghiên cứu về vấn đề nợ công.

10 năm trở lại đây mỗi năm Việt Nam vay khoảng 4-5 tỷ USD từ nước ngoài. Trong cơ cấu nợ Chính phủ hiện nay, khoảng 80% chi trả bằng đồng VND và 20% bằng đồng USD. Năm 2014, khối lượng vốn vay nợ công cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đạt khá, đã huy động được 627,8 nghìn tỷ đồng, trên 98% vốn vay đã được sử dụng trực tiếp cho các dự án hạ tầng. Việc tăng cường huy động vốn vay cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, điện, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường... đã tạo ra diện mạo mới cho đất nước, trong đó có một số công trình hiện đại, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.

Việt Nam đã chủ động xây dựng kế hoạch và bố trí trả nợ đầy đủ, đúng hạn, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu NSNN năm 2013 là 15,2%; năm 2014 là 13,8% và năm 2015 dự kiến khoảng 16,1% (theo quy định không quá 25%). Trước những lo lắng tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ đang vượt ngưỡng 25%, thậm chí lên tới 31%, ông Long khẳng định, con số tỷ lệ trả nợ 31% có thể bao gồm cả số vay về cho vay lại (chiếm trên 40% tổng khoản vay). Sau khi vay về, các Bộ, ngành, địa phương, chủ đầu tư… có trách nhiệm trả nợ, do đó không thuộc nghĩa vụ nợ trực tiếp của NSNN.

Việc cơ cấu lại nợ công đã được thực hiện chủ động. Năm 2014, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính chủ động kéo dài kỳ hạn phát hành trái phiếu nhằm giảm dần áp lực trả nợ ngắn hạn và giảm dần đảo nợ. Cụ thể: giảm mạnh và tiến tới ngừng phát hành tín phiếu và trái phiếu kỳ hạn ngắn, tập trung chủ yếu vào trái phiếu có kỳ hạn dài từ 5 năm đến 15 năm, bước đầu cơ cấu lại danh mục trái phiếu Chính phủ. Theo đó, trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm tăng từ 14% năm 2013 lên 27% năm 2014; kỳ hạn 10 năm tăng từ 4% năm 2013 lên 13% năm 2014; kỳ hạn 15 năm tăng từ 2% lên 6% năm 2014.

Tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công

Mặc dù vậy, theo nhận định của Bộ Tài chính, dư nợ công hiện đang tăng nhanh (năm 2010/2009 tăng 27%; năm 2011/2010 tăng 24,8%; năm 2012/2011 tăng 18,4%; năm 2013/2012 tăng 17,9%). Ước năm 2014, chỉ số nợ công ở mức 60,3% GDP và dự kiến năm 2015 khoảng 64% GDP, sát với ngưỡng an toàn được Quốc hội phê duyệt. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, kinh tế trong nước suy giảm nên thu NSNN khó khăn (chỉ đạt khoảng 95% mục tiêu phấn đấu 5 năm 2011-2015) nên Chính phủ phải thực hiện các gói kích cầu từ năm 2009 và các chương trình miễn giảm thuế nhằm khôi phục sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, việc gia tăng dư nợ công là do sức ép về nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn; vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài cho các chương trình, dự án đầu tư gia tăng đáng kể, bội chi NSNN luôn duy trì ở mức cao làm tăng vay của Chính phủ… Do đó, việc nợ công đang tiến dần tới ngưỡng cần được chú ý và giám sát chặt chẽ.

Ngoài ra, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ cũng có xu hướng gia tăng khá nhanh. Thực tế trong năm 2013 do cân đối NSNN khó khăn nên đã phải bố trí dự toán chi trả nợ thấp hơn yêu cầu (chỉ đảm bảo đủ nguồn chi trả nghĩa vụ nợ nước ngoài và một phần nghĩa vụ nợ trong nước), phải phát hành đảo nợ một phần các khoản vay trong nước. Do vậy áp lực về vay mới để trả các khoản vay cũ trong nước là tương đối lớn. Mặc dù quy mô nợ công so với GDP đang ở mức cao, gần với ngưỡng được Quốc hội cho phép trong khi nguồn lực của còn hạn chế nên vẫn cần thiết phải huy động vốn vay để đầu tư.

Để từng bước khắc phục các tồn tại, hạn chế nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 14/02/2015 về tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công. Chỉ thị yêu cầu các đơn vị liên quan quản lý chặt chẽ nợ công, nhất là các khoản vay mới; Tính đúng, tính đủ nợ công theo quy định, đảm bảo trong giới hạn cho phép; Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, bảo đảm hiệu quả đầu tư, chất lượng công trình và theo đúng quy định của pháp luật; Chủ động ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; Khẩn trương cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng tỷ trọng vốn vay dài hạn để giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn; Đẩy mạnh triển khai các nghiệp vụ quản lý và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công; Tăng tính thanh khoản và thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ; Quản lý chặt chẽ các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh. Cho vay lại theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay lại, giảm dần tỷ lệ cấp phát và thu đủ nợ đối với các khoản Chính phủ vay về cho vay lại.

Box: Theo Bộ Tài chính, nợ công của nước ta đến cuối năm 2014 là 60,3% GDP và theo kế hoạch đến năm 2016 sẽ tăng lên mức cao nhất là 64,9% GDP. Các năm sau đó sẽ giảm dần, đến năm 2020 còn khoảng 60,2% GDP, nằm trong giới hạn quy định an toàn cho phép là không quá 65% GDP và khống chế nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN hàng năm không quá 25% GDP.

THÙY ANH

Cùng chuyên mục
  • Xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng đường sắt: Yêu cầu cấp thiết
    9 năm trước Doanh nghiệp
    (BKTO) - Trong điềukiện nguồn NSNN còn hạn hẹp, việc đầu tư kết cấu hạ tầng (KCHT) giao thông nóichung, lĩnh vực đường sắt nói riêng, đang hết sức khó khăn. Do đó, Bộ Giaothông - Vận tải (GTVT) kêu gọi mọi nguồn lực xã hội đầu tư vào KCHT đường sắtvới nhiều giải pháp phù hợp để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.
  • Việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp
    9 năm trước Doanh nghiệp
    (BKTO) - Tạo việc làm và giải quyết việc làm là một trong nhữngđịnh hướng chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với cácnước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Những năm qua, Đảngvà Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo việc làm và giải quyết việclàm gắn liền mục tiêu xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, hầu hết các chính sách được banhành đều nhằm hỗ trợ tạo việc làm, tìm kiếm và giải quyết việc làm cho tất cảcác đối tượng người lao động và người sử dụng lao động chứ chưa có một văn bảnquy phạm pháp luật điều chỉnh riêng cho đối tượng là sinh viên tốt nghiệp cáctrình độ đào tạo.
  • 20 năm cải cách kế toán Việt Nam: Đưa hoạt động kế toán vào nề nếp
    9 năm trước Doanh nghiệp
    (BKTO) - 20 năm qua, hệ thống kế toán đã trở thành công cụđể Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát; góp phần tích cực trong việcthực hiện công tác kiểm toán; giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thu nộp NSNN, tạocơ chế công khai, minh bạch các Báo cáo tài chính.. Tuy nhiên, do yêu cầu củatình hình mới, Luật Kế toán cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
  • Ý Kiến DN có vốn đầu tư nước ngoài  tại Việt Nam: Môi trường kinh doanh có nhiều cải thiện
    9 năm trước Doanh nghiệp
    (BKTO) - Kết quả khảo sát thu thập ý kiến của 1.491DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đến từ 43 quốc gia và vùng lãnh thổ, hoạtđộng trên địa bàn 14 tỉnh, thành phố của Việt Nam có mật độ DN FDI tập trungcao nhất do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện cho thấynhiều “điểm sáng” nổi lên trong môi trường kinh doanh, đan xen với một vàikhoảng “tối” cần tiếp tục cải thiện.
  • Bán cổ phần theo lô:  Góp phần đẩy nhanh cổ phần hóa DNNN
    9 năm trước Doanh nghiệp
    (BKTO) - Tại Hội nghị tái cơ cấu DNNN Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2015 do Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương mới tổ chức, đại diện nhiều tập đoàn, tổng công ty đã đề xuất Chính phủ cho áp dụng cơ chế bán cổ phần theo lô mà Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) đã áp dụng thí điểm thành công. Đề nghị này đã được Chính phủ chấp thuận.
Nợ công vẫn an toàn nhưng cơ cấu nợ chưa bền vững