Sớm có Hướng dẫn kiểm tra, đối chiếu trong hoạt động kiểm toán

(BKTO) - Thời gian qua, việc kiểm tra, đối chiếu đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đơn vị có liên quan đến hoạt động kiểm toán nhà nước (KTNN) đã diễn ra ở tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, việc thiếu một Hướng dẫn trong lĩnh vực này đã dẫn tới lúng túng trong triển khai cũng như chưa đảm bảo sự soát xét, kiểm tra và phối hợp của các bên trong thực hiện.

z4167751253990_75c6b9fbcbd1a61c61c19cd1ab4267c8.jpg
Ảnh minh họa. Ảnh tư liệu

Tác động tích cực đến quản lý ngân sách, ý thức người nộp thuế

Theo nghiên cứu của ThS. Bùi Thanh Lâm (KTNN khu vực I) và ThS. Trần Thị Thanh Bình (Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán), hiện nay, với những đoàn kiểm toán có quy mô kiểm toán nhỏ, việc lựa chọn đơn vị kiểm tra, đối chiếu có thể được thực hiện ngay trong quá trình khảo sát và lập kế hoạch tổng quát. Tuy nhiên, hình thức này không phù hợp với những đoàn kiểm toán có quy mô phức tạp, nhiều tổ kiểm toán. Hình thức được áp dụng phổ biến trong kiểm toán hiện nay là lựa chọn đơn vị kiểm tra, đối chiếu trong giai đoạn thực hiện kiểm toán. Thời gian kiểm tra, đối chiếu được thực hiện kết hợp trong thời gian kiểm toán tại đơn vị và được phân công cụ thể cho từng kiểm toán viên (KTV).

Thông qua kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp thuế, KTNN đã phát hiện một số doanh nghiệp FDI có dấu hiệu chuyển giá, trốn thuế.

Luật KTNN sửa đổi năm 2019 quy định về việc kiểm tra, đối chiếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán; Quyết định số 155/QĐ-KTNN ngày 18/02/2021 quy định việc kiểm tra, đối chiếu tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động kiểm toán của KTNN đã đưa hoạt động này vào nền nếp, giúp kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm tra, đối chiếu của các đoàn kiểm toán, đặc biệt là đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp thuế trong kiểm toán thu ngân sách. Việc lựa chọn đơn vị, đối tượng kiểm tra, đối chiếu được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá rủi ro và phải được trưởng đoàn phê duyệt trước khi thực hiện đã giúp kiểm tra, đối chiếu có trọng tâm, trọng điểm.

Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, đối chiếu đã tác động tích cực đến công tác quản lý thu ngân sách, ý thức chấp hành pháp luật của người nộp thuế. Việc kiểm tra, đối chiếu các đơn vị dự toán, ngân sách cấp dưới trong lĩnh vực chi ngân sách cũng giúp các tổ kiểm toán thu thập thêm các hồ sơ tài liệu, bằng chứng để xác nhận số liệu tài chính, đánh giá công tác điều hành chi ngân sách địa phương.

Một số khó khăn, vướng mắc

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác kiểm tra, đối chiếu của KTNN vẫn còn những khó khăn, vướng mắc. Cụ thể, việc kiểm tra, đối chiếu trên các lĩnh vực kiểm toán theo yêu cầu của hoạt động kiểm toán chưa được thực hiện. Việc thu thập thông tin để lựa chọn đơn vị, đối tượng thực hiện kiểm tra, đối chiếu còn hạn chế.

Khuôn khổ pháp lý liên quan cũng còn những khoảng trống như: Chưa có một hướng dẫn cụ thể trong việc phân tích thông tin để lựa chọn đơn vị, đối tượng kiểm tra, đối chiếu; chưa có hướng dẫn cụ thể đối với các nội dung, thủ tục thực hiện khi kiểm tra, đối chiếu, đặc biệt những đối tượng được kiểm tra, đối chiếu thường xuyên (doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị dự toán, ngân sách cấp dưới…).

Thời gian thực hiện kiểm tra, đối chiếu ngắn, số lượng đơn vị, đối tượng kiểm tra, đối chiếu lớn. Bình quân, thời gian kiểm tra, đối chiếu của nhiều đoàn kiểm toán chỉ 1 ngày/đơn vị, dẫn đến không thực hiện được đầy đủ nội dung, chất lượng theo yêu cầu.

3 nội dung kiểm tra, đối chiếu chủ yếu được thực hiện trong hoạt động kiểm toán của KTNN: Một số chỉ tiêu thông tin tài chính cần củng cố, bổ sung thêm bằng chứng thu thập từ các đơn vị bên ngoài có liên quan, các bên cung cấp dịch vụ cho đơn vị được kiểm toán; số liệu báo cáo người nộp thuế tại cơ quan thuế, hải quan; quyết toán chi ngân sách của các đơn vị ngân sách và dự toán cấp dưới.

Việc kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp thuế khi kiểm toán ngân sách địa phương chủ yếu thực hiện cho năm kê khai theo năm kiểm toán. Theo Luật Quản lý Thuế, phạm vi thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế là không quá 5 năm chưa được thanh tra, kiểm tra. Mặt khác, số thuế thu nhập doanh nghiệp kê khai năm trước sẽ thực hiện quyết toán và nộp ngân sách nhà nước năm kiểm toán. Do vậy, việc xác định 1 năm đối chiếu như hiện nay chưa phù hợp với việc xác định nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp và có thể rủi ro bỏ sót kết quả, chưa đánh giá đúng công tác thanh tra, kiểm tra, chống thất thu của cơ quan thuế.

Hướng dẫn kiểm tra, đối chiếu tại đối tượng nộp thuế và các đơn vị khác

Để khắc phục những vướng mắc trên, theo Nhóm tác giả, cần xây dựng Hướng dẫn kiểm tra, đối chiếu trong hoạt động kiểm toán của KTNN.

Về kiểm tra, đối chiếu tại các đối tượng nộp thuế, cần hướng dẫn cụ thể từ việc thu thập tài liệu, phân tích thông tin, lựa chọn đơn vị được kiểm tra, đối chiếu, đến các nghiệp vụ thực hiện. Theo đó, Hướng dẫn phải giúp KTV có thể tập trung đánh giá rủi ro, phân tích thông tin, lựa chọn đối tượng, người nộp thuế cần đối chiếu trên các nội dung chủ yếu: Phân tích đặc điểm địa bàn quản lý, cơ cấu thu ngân sách; phân tích, đánh giá hệ thống quản lý rủi ro của cơ quan thuế; vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính để nhận diện rủi ro về thuế.

Mặt khác, Hướng dẫn cần quy định các thủ tục kiểm toán cụ thể đối với một số sắc thuế thường được kiểm tra, đối chiếu trong hoạt động kiểm toán như: Việc kê khai nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên, tiền sử dụng đất, thuê đất. Kinh nghiệm cho thấy, đây là một số nội dung thường có dấu hiệu rủi ro về thuế cần được kiểm tra, đối chiếu.

Về kiểm tra, đối chiếu tại các đơn vị khác, KTNN cần hướng dẫn đối chiếu một số thông tin, nội dung, chỉ tiêu tài chính trọng yếu. Việc đối chiếu để thu thập bổ sung tài liệu, hồ sơ, bằng chứng kiểm toán gồm 4 bước: Xác định rõ thông tin cần đối chiếu, xác nhận hoặc yêu cầu cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu từ bên thứ ba; xác định bên đối chiếu thích hợp; lựa chọn hình thức đối chiếu (gửi văn bản yêu cầu cung cấp tài liệu hoặc làm việc trực tiếp); phân tích thông tin, hồ sơ tài liệu nhận được, đánh giá độ tin cậy của thông tin, tài liệu để đưa ra ý kiến kiểm toán hoặc xác định các thủ tục kiểm toán tiếp theo.

Bên cạnh đó, KTV cần được hướng dẫn về việc phân tích, đánh giá, nhận diện rủi ro làm cơ sở lựa chọn đơn vị kiểm tra tại các đơn vị dự toán, đơn vị sự nghiệp có thu; kiểm tra, đối chiếu một số nội dung, chỉ tiêu tài chính đơn vị dự toán, đơn vị sự nghiệp có thu…/.

Cùng chuyên mục
Sớm có Hướng dẫn kiểm tra, đối chiếu trong hoạt động kiểm toán