Thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu
EVFTA có hiệu lực từ ngày 01/8/2020. Sau 2 năm thực thi, Hiệp định đã đem lại nhiều lợi ích tích cực cho nền kinh tế Việt Nam.
Chia sẻ tại Hội thảo “Đánh giá 2 năm thực thi Hiệp định EVFTA tại Việt Nam từ góc nhìn doanh nghiệp”, bà Nguyễn Cẩm Trang - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương - cho biết, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU giai đoạn từ tháng 8/2020 - 7/2022 đạt 83,4 tỷ USD, tức trung bình đạt 41,7 tỷ USD/năm, cao hơn 24% kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016-2019. Tỷ lệ hàng xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan trong EVFTA năm 2020 đạt 14,8%, tăng lên 20,2% vào năm 2021 và 24,5% trong 6 tháng đầu năm 2022.
Đặc biệt, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng sang thị trường EU như sắt thép tăng 739%; máy ảnh, máy quay phim, linh kiện tăng 260%; máy móc và thiết bị tăng 82,3%... Một số mặt hàng mới cũng có mức tăng trưởng cao sang thị trường EU trong giai đoạn này như nhóm mặt hàng gạo, sản phẩm mây tre, cói thảm (tăng trên 50%); các sản phẩm gốm, sứ (tăng trên 25%); nhóm mặt hàng rau quả, dây diện và dây cáp điện (tăng trên 15%)...
Về đầu tư, theo ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), năm 2020, tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của EU vào Việt Nam đạt gần 1.376 triệu USD, giảm 8,6% so với năm 2019, đứng thứ 8 và chiếm 4,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam.
Năm 2021, tình hình có cải thiện hơn, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 1.405 triệu USD, tăng 2,2%, giúp EU vươn lên vị trí đứng thứ 5, nhưng tỷ trọng trong tổng vốn FDI giảm nhẹ, chiếm 4,5%.
Đặc biệt, tổng vốn đầu tư bình quân năm giai đoạn 2017-2021 (giai đoạn sau khi EVFTA hoàn tất đàm phán) tăng 86% so với thời gian năm 2015-2016.
Mặc dù việc thực thi EVFTA đã đem lại những kết quả tích cực bước đầu, tuy nhiên, theo các chuyên gia vẫn còn nhiều dư địa, tiềm năng để tiếp tục khai thác, tận dụng lợi thế từ Hiệp định, nhằm mang lại những lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế.
Biểu hiện là, về thương mại, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam đi EU năm 2021 chỉ đạt 14,1%, thấp hơn mức tăng trưởng trung bình của xuất khẩu Việt Nam đi các thị trường có các FTA khác (18,2%) và từ Việt Nam đi toàn thế giới (19%). Mức tăng trưởng này cũng thấp hơn so với mức tăng trưởng nhập khẩu của EU từ tất cả các nước trên thế giới trong năm 2021 (23%).
Hay như về đầu tư, đầu tư của EU vào Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của EU (0,35% năm 2021).
Doanh nghiệp đang tận dụng khá tốt Hiệp định
Thông tin về hiệu quả thực thi EVFTA từ đánh giá của cộng đồng DN, bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI - cho biết, qua khảo sát hơn 500 DN xuất, nhập khẩu trên cả nước cho thấy, gần 41% DN phản hồi đã từng hưởng những lợi ích cụ thể từ EVFTA ở một hoặc các khía cạnh khác nhau.
Trong số này, lợi ích phổ biến nhất là các ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu; các hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận từ cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu với EU. Bên cạnh đó, DN cũng được hưởng lợi khi có thêm cơ hội hợp tác, liên kết để tận dụng EVFTA, cũng như các nhóm lợi ích khác có tính dài hạn như cơ hội đầu tư, bảo hộ tài sản trí tuệ ở EU…
Theo bà Trang, đối với một hiệp định mới có hiệu lực thực thi được 2 năm, tỷ lệ DN được hưởng lợi ích như trên là rất ấn tượng. Điều này là kết quả của sự cải thiện trong mức độ hiểu biết của DN về EVFTA. Theo khảo sát của VCCI, có tới gần 94% DN từng nghe nói hoặc biết ở các mức độ khác nhau về Hiệp định này, cao nhất trong số các FTA đang thực hiện. Cứ 10 DN thì có 3 DN biết khá rõ và 1 DN biết rất rõ về các cam kết trong EVFTA có liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
“Trong một khảo sát tương tự mà VCCI thực hiện năm 2020 nhằm đánh giá 2 năm thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một FTA thế hệ mới có quy mô tương tự như EVFTA, chỉ có 24,7% DN từng hưởng lợi từ Hiệp định. So sánh trên cho thấy, EVFTA thực sự đã lan tỏa lợi ích cụ thể tới một số lượng không nhỏ các DN” - bà Trang chia sẻ thêm.
Nhìn về tương lai, kết quả khảo sát của VCCI cho thấy, 76% DN cho rằng EVFTA và các FTA khác sẽ có tác động tới triển vọng kinh doanh của họ trong 3 năm tới, trong số này, đa số DN (85%) kỳ vọng tác động này sẽ là tích cực. Theo đó, phần lớn kỳ vọng của DN đặt vào khả năng cải thiện trong nguồn cung, lượng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận, tham gia chuỗi giá trị, cơ hội hợp tác.
Theo các chuyên gia, những con số tích cực ở trên cho thấy, EVFTA đã được các DN từng bước tận dụng hiệu quả. Mặc dù vậy, cũng tồn tại một số bất cập, hạn chế cản trở DN hiện thực hóa các lợi ích kỳ vọng từ Hiệp định.
Đơn cử như, về mức độ tương thích của các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam với các cam kết trong EVFTA, vẫn còn một vài trường hợp quy định “nội luật hóa” chưa hoàn toàn bám sát cam kết (ví dụ về sở hữu trí tuệ), đặt thêm điều kiện làm hạn chế quyền hưởng ưu đãi (ví dụ về điều kiện nộp chậm chứng từ xuất xứ), hoặc hiện trạng pháp luật chưa bảo đảm việc thực thi cam kết EVFTA trên thực tế (ví dụ về quyền tự do liên kết của người lao động)…
Từ phía DN, các DN cũng chỉ ra các lực cản khiến họ khó hưởng lợi từ EVFTA và các FTA khác, đáng kể nhất là các biến động và bất định của thị trường, năng lực cạnh tranh hạn chế, thiếu thông tin về cam kết và cách thức tận dụng các hiệp định...
Từ thực tế trên, các chuyên gia cho rằng, trong giai đoạn thực thi tiếp theo, cần thiết phải có những điều chỉnh phù hợp trong chính sách của Nhà nước cũng như trong nhận thức và hành động của DN, nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho nền kinh tế và cộng đồng DN.
Theo đó, từ góc độ Nhà nước, cần tiếp tục điều chỉnh một số quy định, cơ chế thực thi EVFTA cho phù hợp và thuận lợi hơn. Song song với đó, cần có sự chuyển hướng công tác hỗ trợ thông tin về EVFTA và các FTA cho DN, theo hướng thông tin chi tiết, chính xác, cập nhật theo nhu cầu DN và có thể tiếp cận dễ dàng. Đồng thời, cần triển khai thực hiện một cách thực chất hơn trong các hoạt động hỗ trợ khác cho DN như hỗ trợ cải thiện năng lực cạnh tranh, xúc tiến thương mại, kết nối và bảo vệ DN...
Về phía DN, theo các chuyên gia, sự chủ động trong nhận thức và hành động của DN là điều kiện cần và các nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh là điều kiện đủ để DN có thể hiện thực hóa các lợi ích từ EVFTA cũng như các FTA nói chung.
Bên cạnh đó, sự hợp tác, liên kết giữa các DN, đặc biệt là trong khuôn khổ các hiệp hội, sẽ là yếu tố trợ lực rất có ý nghĩa để việc tận dụng các cam kết hội nhập của DN được hiệu quả, an toàn và bền vững hơn./.