Phát triển và xuất khẩu dịch vụ - Động lực hậu Covid-19

(BKTO) - Theo Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung 5 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt trên 1,9 triệu tỷ đồng, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam tự hào năm 2019 là năm thứ tư liên tiếp xuất siêu hàng hóa và cán cân thương mại hàng hóa 5 tháng đầu năm 2020 tiếp tục xuất siêu 1,9 tỷ USD. Tuy nhiên, chưa có năm nào Việt Nam xuất siêu dịch vụ. Trung bình giai đoạn 2011-2019, mỗi năm cả nước nhập siêu 3 tỷ USD dịch vụ… Ngay cả niềm tự hào ngầm rằng có Mỹ là thị trường xuất khẩu và xuất siêu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, thì Việt Nam cũng luôn nhập siêu dịch vụ từ Mỹ.



Nhập siêu dịch vụ tăng nhanh cùng với đà tăng xuất nhập khẩu hàng hóa vì trên 80% thị phần vận chuyển hàng biển, dù xuất hay nhập khẩu, đều do các hãng nước ngoài đảm nhận.

Nhập siêu dịch vụ tăng mạnh cùng đà tăng của hàng triệu du khách quốc tế mỗi năm, do thị phần hàng không của Việt Nam, dù bay ra hay bay vào, cũng đa phần do hãng hàng không nước ngoài đảm nhận. Việt Nam được xếp thứ 24/141 quốc gia về tài nguyên du lịch, nhưng chỉ đứng thứ 75/141 về năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu, mặc dù đã có nhiều chủ trương và chính sách phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn…

Các dịch vụ du lịch, tài chính - ngân hàng quốc tế và phục vụ ngoại giao đoàn hạn chế, nghèo nàn, ít giá trị gia tăng cũng làm chậm tăng các thu nhập từ xuất khẩu dịch vụ tại chỗ của Việt Nam và mất cơ hội cân bằng cán cân thanh toán dịch vụ tổng thể của nước ta.

Sự thiếu vắng dịch vụ logistics, bảo quản và chế biến nông sản nông nghiệp là căn nguyên của tình trạng hư hỏng và thất thoát tới 30% sản lượng nông sản; kéo dài tình trạng “được mùa mất giá” và hạ giá bán nông sản tại đầu bờ chỉ bằng 1/3 giá tại chợ và thậm chí bằng 1/10 giá xuất khẩu.

Mỗi năm có khoảng 40.000 người Việt ra nước ngoài để khám chữa bệnh với chi phí hàng tỷ USD, hàng chục nghìn học sinh đi học nước ngoài với chi phí hàng tỷ USD/năm cũng làm tăng kim ngạch nhập siêu dịch vụ của Việt Nam….

Nghĩa là, tình trạng Việt Nam coi nhẹ và bỏ qua mục tiêu, động lực tăng trưởng kinh tế, thu nhập tài chính cả vĩ mô và vi mô từ phát triển dịch vụ và xuất khẩu dịch vụ đã kéo dài nhiều thập kỷ qua.

Việt Nam có nhiều lợi thế cả về điều kiện tài nguyên, khí hậu, con người và truyền thống để định hình, phát triển những dịch vụ truyền thống và hiện đại, chất lượng cao, đa tiện ích.

Đặc biệt, dịch Covid-19 cho thấy thành tựu và tiềm năng lớn lao của Việt Nam trong phát triển dịch vụ y tế cộng đồng và khám, chữa bệnh các tuyến cả T.Ư và địa phương, kể cả những bệnh mới đang đe dọa toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam đã và đang triển khai thành công nhiều kỹ thuật mới, chuyên sâu, hiện đại, ngang tầm khu vực và trên thế giới, như: phẫu thuật hàm mặt và sọ mặt; phẫu thuật chỉnh hình xương hàm mặt; cấy ghép nha khoa; can thiệp tim mạch, thụ tinh ống nghiệm, phẫu thuật nội soi, ghép tạng, ghép tế bào gốc đồng loại, ứng dụng Robot định vị trong phẫu thuật cột sống và phẫu thuật nội soi nhi khoa; điều trị ung thư vú. Nhiều bệnh viện như: Việt Đức, Nhi T.Ư, Bạch Mai, Chợ Rẫy, Đại học Y dược, Từ Dũ... còn giảng dạy cho nhiều khóa các bác sĩ nước ngoài trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi, hiếm muộn... Nhiều bệnh viện Việt Nam có đội ngũ phiên dịch hỗ trợ chuyên nghiệp và bác sĩ Việt biết tiếng Anh, rất khéo tay, chuyên môn cao, có đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật đáp ứng tất cả nhu cầu điều trị nha khoa cho người nước ngoài, trong khi giá rẻ từ 1/2 đến 5 lần, thậm chí chỉ bằng 1/10 ở Singapore… Một thị trường du lịch kết hợp khám chữa bệnh và nghỉ dưỡng chất lượng cao cho hàng trăm triệu dân có nhu cầu và khả năng thanh toán ngày càng cao chính là động lực mới cho ngành y tế nước nhà vươn lên, hướng tới một hệ thống dịch vụ tích hợp tiện ích, chuyên nghiệp, hiệu quả và khác biệt, chất lượng cao, bác sĩ giỏi và tận tâm, y đức cao, được “tính đủ, thu đủ” theo chuẩn quốc tế, lấy sự hài lòng của người bệnh làm mục tiêu và thước đo đánh giá cao nhất.

Bối cảnh thế giới và trong nước hậu Covid-19 đang và sẽ bộc lộ nhiều áp lực cũng như cơ hội mới cho phát triển và xuất khẩu dịch vụ, trước hết trong các dịch vụ chính phủ, dịch vụ du lịch, tài chính, vận tải, dịch vụ viễn thông, máy tính và thông tin, dịch vụ tư vấn, bảo hiểm và hưu trí, dịch vụ sở hữu trí tuệ, nhất là dịch vụ y tế, công nghệ thông tin, kết nối cộng đồng phi tiếp xúc truyền thống…

Đặc biệt, phát triển và xuất khẩu dịch vụ không chỉ cần và sẽ ngày càng trở thành động lực mới mạnh mẽ cho phát triển, cải thiện cơ cấu kinh tế, cải thiện cán cân thương mại tổng thể, trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư kinh tế, mà còn góp phần cải thiện chất lượng sống người dân; đồng thời củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam trong các chuỗi cung ứng giá trị trên thế giới.

Chủ động quy hoạch, thiết lập mới và đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư phát triển chuỗi các cơ sở dịch vụ chất lượng cao, chuyên nghiệp, ngày càng cạnh tranh về giá cả và những tiện ích, đáp ứng nhu cầu cho cả cộng đồng người dân trong nước và người nước ngoài, phải được coi là mục tiêu và động lực mới của năm 2020, đặc biệt trong bối cảnh thực thi các FTA thế hệ mới, như CPTPP và cả EVFTA.

TS. NGUYỄN MINH PHONG
Chuyên gia Kinh tế
Cùng chuyên mục
  • Doanh nghiệp FDI cần “tam công”
    4 năm trước Góc nhìn
    (BKTO) - Thực tế cho thấy, DN FDI mặc dù chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (hơn 1/5), trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (trên dưới 1/4) và trong tổng kim ngạch xuất khẩu (khoảng 70%) song lại được hưởng nhiều ưu đãi về thuế trong thời gian dài nên đóng góp của DN FDI vào NSNN chưa tương xứng với vị thế của khu vực này trong nền kinh tế (khoảng 15% tổng thu NSNN). Ngoài ra, không loại trừ khả năng chuyển giá của các DN FDI có thể làm giảm tỷ trọng đóng góp vào NSNN của khu vực này khi tỷ trọng DN FDI trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa hằng năm khoảng 60%.
  • Thực trạng nộp thuế của doanh nghiệp
    4 năm trước Góc nhìn
    (BKTO) - Trong tổng thu NSNN, khu vực khác lại chiếm tỷ trọng lớn nhất suốt giai đoạn 2001-2019 với mức dao động trên dưới 40%, thậm chí tới gần 50% những năm 2009 và 2017-2019. Đứng thứ hai về tỷ trọng trong tổng thu NSNN là khu vực DNNN với mức trên dưới 20%. Khu vực DN ngoài quốc doanh vươn lên chiếm vị trí số 3 sau gần 2 thập kỷ liên tục tăng tỷ trọng và đạt kỷ lục 16,3% vào năm 2019. Khu vực FDI được coi là đột phá và quan trọng của nền kinh tế song chỉ đứng vị trí cuối cùng về đóng góp cho NSNN với tỷ trọng cao nhất là 14,7% tổng thu NSNN năm 2016, ngoại trừ năm 2019 đột ngột tăng lên 17,3%.
  • Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong đổi mới và phát triển
    4 năm trước Góc nhìn
    (BKTO) - Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, khi giang sơn sạch bóng quân xâm lược, non sông gấm vóc liền một dải. Từ đó, cả nước vừa ra sức khôi phục kinh tế, tìm tòi, tháo gỡ khó khăn, khắc phục trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội; vừa tiến hành hai cuộc chiến đấu chống xâm lược ở hai đầu biên giới, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
  • Áp lực lạm phát giảm  trong quý I/2020
    4 năm trước Góc nhìn
    (BKTO) - Sau 3 tháng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) liên tiếp tăng cao trên dưới 1%, từ tháng 02/2020, CPI đảo chiều giảm, thậm chí giảm sâu tới 0,72% vào tháng 3/2020 với 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có CPI giảm. Giảm nhiều nhất là nhóm giao thông chủ yếu do tác động của điều chỉnh giảm giá xăng, dầu tới 9,83% giúp cho CPI chung giảm tới 0,43%. CPI nhóm văn hóa, giải trí và du lịch cũng giảm 1,4%; CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống vẫn giảm 0,43% mặc dù giá lương thực tăng 1,09% song giá thực phẩm lại giảm 0,89%. Như vậy, CPI bình quân quý I/2020 so với cùng kỳ năm 2019 tuy vẫn tăng 5,56% song xu thế vượt ngưỡng an toàn 5% đã đảo chiều kể từ tháng 02/2020.
Phát triển và xuất khẩu dịch vụ - Động lực hậu Covid-19