Vốn cung ứng cho nền kinh tế bị hạn chế
Tại Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) trình Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đề xuất giảm tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng. Theo đó, tổng dư nợ mà các ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô có thể cấp cho một khách hàng từ mức 15% vốn tự có như hiện tại sẽ giảm xuống còn 10%; với một khách hàng và người có liên quan giảm từ 25% xuống còn 15% (bao gồm cả tín dụng lẫn trái phiếu). Tương tự, giảm từ 25% và 50% xuống còn 15% và 25% đối với tổ chức tín dụng (TCTD) phi ngân hàng.
Theo NHNN, quy định này nhằm hạn chế tình trạng rủi ro từ tập trung tín dụng đã gây ra những hệ lụy không tốt đến thị trường tài chính trong nước thời gian vừa qua. Tuy nhiên, nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị cần cân nhắc quy định này.
Theo đại biểu Trần Trí Cường (Đoàn TP. Đà Nẵng), bên cạnh việc thu hẹp khá lớn về room tín dụng được cấp cho khách hàng, Dự thảo Luật còn mở rộng định nghĩa phạm vi, đối tượng về người có liên quan, đó là công ty con của công ty con của TCTD, mở rộng người có quan hệ huyết thống.
Điều này dẫn đến tổng dư nợ cấp tín dụng cho nhóm khách hàng sẽ thấp hơn trước rất nhiều. Ngân hàng có thể cũng sẽ bị thu hẹp lượng khách hàng và khách hàng cũng sẽ bị thu hẹp về nguồn vốn được tiếp cận. Như vậy, có thể gây tác động bất lợi kép cho cả khách hàng và ngân hàng.
Theo đại biểu, vấn đề này có thể ảnh hưởng lớn và tức thời, đó là nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế bị hạn chế hơn. Trong bối cảnh nhiều khó khăn như hiện nay, kinh tế giảm sút, lãi suất tăng cao, tín dụng tăng trưởng thấp, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp vào nền kinh tế yếu, kênh huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề nên gần như không đảm bảo vai trò huy động vốn cho phát triển.
“Việc giảm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng cần có sự đánh giá thật kỹ các tác động hiện nay, cần phân tích và đánh giá rõ hơn về thực trạng vay vốn và rủi ro trong thực tại để có giải pháp phù hợp, căn cơ nhất. Quy định mới nhưng không làm tác động quá lớn đến dòng vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận, tạo điều kiện để đảm bảo dòng vốn thông suốt, phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản, xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không làm mất khả năng cạnh tranh môi trường đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực” - đại biểu Cường đề nghị.
Đồng quan điểm, đại biểu Nguyễn Việt Hà (Đoàn Tuyên Quang) đề nghị việc giảm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng cần có lộ trình thực hiện phù hợp để đảm bảo không gây đứt gãy đột ngột nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, dẫn đến rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Thực tế hiện nay, khi chưa thực hiện điều chỉnh giảm thì đã có doanh nghiệp gần như chạm trần tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng tại tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước.
Đảm bảo không làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp
Cùng quan tâm đến vấn đề này, đại biểu Phạm Thị Thanh Mai (Đoàn TP. Hà Nội) nhấn mạnh, theo kinh nghiệm quốc tế thì tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng tại Luật Các TCTD năm 2020 vẫn khá tương đồng với nhiều quốc gia. Vì vậy, việc siết chặt quy định về giới hạn cấp tín dụng nếu cần thiết như Dự thảo trình thì cần phải đánh giá kỹ lưỡng, làm rõ hơn tác động đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty của doanh nghiệp nhà nước đang được giao thực hiện các dự án trọng yếu, quan trọng của nền kinh tế có sử dụng vốn vay của các TCTD như dự án điện, dầu khí. Đồng thời, quy định chặt chẽ việc xác định về người có liên quan để hạn chế rủi ro tập trung đối với nhóm khách hàng.
Đại biểu Nguyễn Văn Hiển (Đoàn Lâm Đồng) phân tích, chỉ tiêu nợ, dư nợ tín dụng của ngân hàng trên GDP của chúng ta hiện nay ở mức rất cao,125% GDP và cao hơn mức trung bình của thế giới. Trong khi đó, hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thậm chí có những trường hợp vi phạm pháp luật trong thời gian vừa qua.
“Tôi đề nghị Ban soạn thảo phải đánh giá kỹ tác động của đề xuất giảm tỷ lệ này, đồng thời cần có quy định chuyển tiếp đối với những trường hợp giới hạn cấp tín dụng vượt quá quy định khi Luật được thi hành” - đại biểu nêu quan điểm.
Giải trình vấn đề các đại biểu Quốc hội nêu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, trên thực tế, nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào hệ thống ngân hàng.
Các tổ chức quốc tế cảnh báo, nếu nhu cầu đầu tư tiếp tục phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng thì sẽ tiềm ẩn rủi ro. Bất cứ khi nào kinh tế thế giới, trong nước có những biến động phức tạp, ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân thì sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng. Khi ngân hàng ảnh hưởng thì domino sẽ rất hệ lụy đến nền kinh tế.
Chính vì vậy, đồng bộ với việc phát triển ngành ngân hàng thì các thị trường như thị trường vốn, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp cần phải được phát triển đồng bộ. Hiện nay, Chính phủ đang có các giải pháp để hướng đến điều đó.
Thống đốc cũng cho rằng, mặc dù giảm room tín dụng được cấp cho một khách hàng hoặc nhóm khách hàng sẽ khiến doanh nghiệp khó khăn tiếp cận vốn, song NHNN đã cho phép cơ chế là các TCTD đồng tài trợ.
“Nếu một ngân hàng cho vay một doanh nghiệp có nhu cầu vốn rất lớn thì mức độ tập trung rủi ro tín dụng sẽ rất lớn. Việc đồng tài trợ sẽ là chia rủi ro đối với các ngân hàng. Khi doanh nghiệp đấy bị làm sao thì bản thân các ngân hàng cũng chia sẻ rủi ro. Trong trường hợp các ngân hàng không đồng tài trợ được thì vẫn có một cơ chế là Thủ tướng Chính phủ quyết định. Nếu để quy định như hiện hành, với nhu cầu vốn ngày càng tăng cao, vốn điều lệ ngày càng tăng cao thì có thể sẽ tiềm ẩn rủi ro” - Thống đốc lý giải.
Trước băn khoăn của các đại biểu Quốc hội, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết sẽ tiếp tục rà soát để quy định cho phù hợp và đảm bảo nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân nhưng vẫn đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng./.